Diễn Biến Hòa Bình Là Gi

Diễn Biến Hòa Bình Là Gi

1. Những hiểu lầm thường thấy về Super Visa:

CẢM NHẬN VỀ NGÀNH LOGISTICS CỦA ĐÀN ANH 522LOG

“Theo anh thấy, Logistics là một ngành khá nặng tính chuyên môn, rất khó để có thể nắm bắt hiểu rõ về logistics nếu chỉ tìm hiểu trên mạng. Tuy vậy khi được học tại trường anh đã được tiếp cận sâu, kỹ với logistics, anh còn được nhà trường tổ chức cho đi trải nghiệm thực tế tại doanh nghiệp nhiều nơi để có thể tiếp cận gần nhất với logistics, với các doanh nghiệp logistics. Có thể nói logistics là hoạt động hậu cần, mình lên kế hoạch, thực hiện sao cho quá trình lưu chuyển hàng hóa từ nguyên vật liệu thô đến thành phẩm rồi đến tay người tiêu dùng, làm hài lòng người tiêu dùng.” – anh Nguyễn Quang Dương, lớp 522LOG khoá 15

Ngành Logistics đã và đang trở thành một phần không thể thiếu trong nền kinh tế toàn cầu. Với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử và nhu cầu vận chuyển hàng hóa ngày càng cao, vai trò của Logistics ngày càng được khẳng định.

Điều đầu tiên khiến tôi ấn tượng về ngành Logistics chính là sự đa dạng và phức tạp của nó. Ngành này bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau như vận tải, kho bãi, quản lý chuỗi cung ứng, và các dịch vụ giá trị gia tăng khác. Mỗi mảng đều có những thách thức riêng, yêu cầu kiến thức chuyên sâu và khả năng quản lý linh hoạt. Logistics không chỉ liên quan đến vận chuyển và lưu trữ hàng hóa, mà còn bao gồm việc kiểm soát chất lượng, tối ưu hóa chi phí và giảm thiểu rủi ro. Sự hiệu quả của hậu cần đóng vai trò quan trọng trong thành công của doanh nghiệp.

Logistics là một ngành có tốc độ phát triển nhanh chóng. Các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, blockchain, và Internet vạn vật (IoT) đang được ứng dụng để cải thiện hiệu suất và độ chính xác trong vận hành. Logistics đang cho thấy sự tăng trưởng mạnh về thương mại điện tử, chuyển đổi số và tối ưu hóa để giảm thời gian giao hàng, các doanh nghiệp không ngừng liên kết và hợp tác để đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu thị trường, nhu cầu khách hàng. Điều này không chỉ giúp giảm chi phí mà còn nâng cao chất lượng dịch vụ.

Theo khảo sát của Viện Nghiên Cứu và Phát Triển – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, nhân lực của các công ty Logistic tại Việt Nam chủ yếu được đào tạo trực tiếp thông qua công việc hàng ngày, tiếp đến là các lao động tham gia các khóa đào tạo trong nước, và có một số ít nhân lực trực tiếp học tập ở nước ngoài.

Với sự mở rộng của thị trường và nhu cầu vận chuyển hàng hóa toàn cầu, cơ hội việc làm trong ngành logistics rất lớn. Từ các vị trí quản lý kho, điều phối vận tải đến chuyên viên phân tích dữ liệu và quản lý chuỗi cung ứng, ngành này mở ra nhiều con đường sự nghiệp cho các bạn trẻ.

Ngành logistics đang phải đối mặt với giảm số lượng đơn hàng do kinh tế phát triển chậm và bất ổn chính trị toàn cầu. Đây làm ảnh hưởng đáng kể đến các doanh nghiệp Logistics, đặc biệt là trong Logistics quốc tế. Sự cạnh tranh gay gắt về giá cả và dịch vụ, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, đang thúc đẩy nhu cầu về tối ưu hóa chi phí, tăng cường quản lý tải trọng và áp dụng công nghệ tự động hóa, số hóa. Điều này làm nảy sinh nhiều thách thức, đặc biệt đối với các doanh nghiệp logistics nhỏ thiếu nguồn lực

Ngành Logistics mang đến cho tôi cái nhìn sâu sắc về một lĩnh vực đầy năng động và thách thức. Tôi tin rằng với sự phát triển không ngừng của công nghệ và sự đầu tư đúng mức, ngành logistics sẽ tiếp tục là một trụ cột quan trọng của nền kinh tế toàn cầu.

Thị xã La Gi nằm ở phía Tây Nam tỉnh Bình Thuận, cách thành phố Phan Thiết 63 km, cách thành phố Hồ Chí Minh 150 km về phía Tây và cách thành phố Vũng Tàu 90 km về phía Tây Nam. Thị xã La Gi có 28 km chiều dài bờ biển, có 2 cửa biển lớn là cửa sông Dinh và cửa sông Phan. Chiều dài quốc lộ 55 đi qua là 10 km, chiều dài tỉnh lộ 719 đi qua dài 18 km cùng với nhiều tuyến đường khác chạy qua đã tạo cho La Gi một vị trí đặc biệt thuận lợi cho việc phát triển kinh tế năng động và bền vững, hội nhập nhanh với việc phát triển kinh tế - xã hội, khoa học kỹ thuật cùng với Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Thị xã La Gi có các thắng cảnh: Đồi Dương, Bãi Dương Cam Bình, Ngảnh Tam Tân, Hòn Bà, Dinh Thầy Thím. Cảng Lagi là một trong những Cảng cá biển vào loại lớn nhất Tỉnh Bình Thuận và khu vực.

Hòn Bà là một hòn đảo nhô cao lên giữa biển, cách bờ biển Lagi huyện Hàm Tân gần 2 cây số về hướng Ðông. Cách Phan Thiết khoảng 70 km về phía Ðông Nam.

Hòn Bà là ngọn núi trẻ, trên núi có nhiều cây cổ thụ lớn. Nửa đầu thế kỷ XVII người Chăm đã dựng lên một ngôi đền để thờ nữ Thần Thiên Y Ana, vị Thần thiêng liêng của vương quốc Chămpa cổ. Cũng từ đây hòn đảo có tên là Hòn Bà. Ngôi đền thờ có kết cấu kiến trúc và trang trí nghệ thuật giống như ngôi miếu của người Việt cùng thời. Trong ngôi đền thờ, tượng nữ Thần Thiên Y Ana bằng đá, được các nghệ nhân Chăm tạc từ một khối đá nguyên tại chỗ. Việc thờ tượng Bà ở trên đỉnh Hòn Bà thể hiện sự tôn vinh của người Chăm với nữ Thần. Mặt khác ở những thế kỷ trước đây, nghề biển là nghề chính thu hút đông đảo ngư dân Chăm ven bờ mà dấu vết của những làng ngư cổ vẫn còn. Do vậy, việc thờ tượng Nữ thần ở đây cũng là sự cầu mong cho Nữ thần phù hộ, cứu nạn cho họ trên biển. Hàng năm người Chăm ở các nơi thường đến đây làm lễ cầu mưa và các nghi lễ tôn giáo khác.

Trong kháng chiến chống Pháp do chiến tranh ngày càng các liệt, quân Pháp ngăn cấm không cho dân làng đến đảo thờ cúng và việc đi lại khó khăn hơn cũng làm cho người Chăm dần dần lãng quên đi ngôi đền. Chính sự lãng quên này đã tạo điều kiện cho kẻ gian đánh cắp pho tượng Thần và những vật thờ linh thiêng trong ngôi đền cổ cùng sự xuống cấp đổ nát của nó.

Mãi đến năm 1969 ngư dân ở Hàm Tân đã đóng góp tiền của xây dựng lại ngôi đền mới trên nền ngôi đền cổ. Người Việt xây đền thờ Nữ Thần Thiên Y Ana của người Chăm nhưng thực hiện các nghi lễ trong đền lại theo phương thức riêng và phong tục truyền thống của người Việt. Ở đây luôn có một số người bảo vệ và chăm sóc ngôi đền. Lễ hội ở đây là ngày giỗ Nữ Thần Thiên Y Ana mà dân địa phương gọi là ngày Vía Bà. Nghi lễ được tổ chức vào ngày 23 tháng 3 âm lịch hàng năm. Vào ngày này nhân dân ở khắp nơi ra đảo rất đông bằng phương tiện ghe thuyền, trong số đó có rất đông người Chăm ở Hàm Tân và các nơi khác đến viếng Bà.

Huyền thoại về Hòn Bà qua truyền khẩu nhiều đời, dẫu có những chi tiết khác nhau nhưng vẫn là câu chuyện tình đầy tính sử thi. Người ta kể rằng, xưa có đôi vợ chồng trẻ sống thật hạnh phúc bên nhau trên mảnh đất La Gi khi chưa có dấu chân người, tưởng chừng không có gì thay đổi được. Một hôm, người chồng thẫn thờ nghe tiếng con chim lạ hót đã gieo vào lòng chàng bao điều nghĩ ngợi, bàng hoàng. Thế rồi chàng xách ná, tên đi theo tiếng chim mãi về hướng núi xa, với hy vọng sẽ gặp điều may mắn. Đến một vùng đất lạ, thú rừng không gặp nhưng hoa ở quanh chàng hiện ra khung cảnh của ngàn hoa và những hình bóng mỹ nữ diễm kiều. Chàng quên cả lối về với người vợ chân quê.

Ở nhà, nàng nóng lòng bên chảo nước réo sôi, lửa lại sắp tàn, mòn mỏi ngóng chờ chàng mang về những con thịt rừng và tấm da thú màu lông sặc sỡ. Ngày tiếp ngày, nàng vẫn kiên trì nhóm hồng bếp lửa để giữ cho chảo nước luôn sôi. Nhưng trong một đêm được báo mộng, người vợ hiểu ra chàng đã phụ bạc, quay lưng với tình yêu nồng ấm ngày nào nên nàng nổi cơn ghen, hất đổ chảo nước đang sôi như một lời thề đoạn tuyệt. Nàng dậm chân ba dậm, Động Bà Sang bỗng tách một phần đất để trở thành hòn đảo cô đơn chia lìa với bao kỷ niệm. Đó là Hòn Bà!

Trên phần đất tiếp giáp giữa huyện Hàm Tân và Xuyên Mộc (Bà Rịa – Vũng Tàu) có suối nước nóng Bình Châu. Người ta nói là dấu tích chảo nước sôi bị bà đạp đổ. Còn nói về người chồng, có lẽ gặp điều trắc ẩn mà không có cơ hội giãi bày nên ngàn năm đứng mãi ở ngọn núi cao, trông ngóng về hướng biển đông thương nhớ người vợ thủy chung. Địa danh Núi Ông ở huyện Tánh Linh (Bình Thuận) lại gắn với sự tích ở miền biển này.

Ở ngay lối lên đỉnh Hòn Bà có một am thờ ông Cai, cạnh ngay gốc cây trôm già. Có một câu chuyện nhỏ: Người ta nói có một thương buôn khi cặp thuyền ghé đảo núp gió, rung động trước nhan sắc của người chủ đảo, không cầm lòng được nên đã lỡ lời thô lỗ, suýt vong mạng. Nhưng Bà đã tha thứ và người thương buôn này xin tình nguyện làm kẻ hầu hạ bà suốt đời.

Những tàn cây xanh cổ thụ với vô số khối đá muôn vẻ muôn hình, quanh năm xanh biếc như được đánh thức để định hướng cho những con thuyền khẳm đầy cá mực từ khơi xa về lại bến bờ. Hòn Bà, chiếc phao tin cậy cho những con thuyền mải mê trên ngư trường rộng lớn, hấp dẫn của nghề cá La Gi.

Dùng chiếc dao sắt hoặc viên đá để tự khai thác những con hào có bộ vỏ sần sùi bám trên gành đá ẩm mặn nhiều vô kể. Một chút muối tiêu, chanh đã đủ nghe hương vị của biển trời. Độc đáo là những con “vú nàng”, khi được luộc chín thì không còn thứ mỹ vị nào sánh được và phải nhớ mãi như kẻ tương tư...

Ngồi trên gành đá chân đảo nhìn qua làn nước biếc xanh như ngọc, thấy những chòm san hô lấp lành và từng đàn cá tôm hồn nhiên bơi lội dễ quên ta đang ở giữa biển mênh mông. Khung cảnh hữu tình như thế nên có lời ví von: “Hòn Bà là động tiên sa”. Điều đó thật thấm thía khi từ nơi đây nhìn vào đất liền bắt gặp mái phố La Gi và Đồi Dương xa tắp, mới cảm nhận hết điều kỳ diệu của thiên nhiên". Ngày 23 tháng 3 năm âm lịch hằng năm là ngày vía Bà, cũng là ngày lễ hội cầu ngư của người dân xứ biển địa phương.

Tọa lạc giữa khu rừng Bàu Cái nằm trên địa phận thôn Tam Tân (xã Tân Tiến, La Gi, Bình Thuận), Dinh Thầy Thím là khu du tích lịch sử văn hóa được nhiều người tìm đến để chiêm ngưỡng và cúng bái, nhất là vào dịp tảo mộ (ngày 5 tháng giêng) và hội Dinh Thầy (15, 16/9 âm lịch) hàng năm.

Tương truyền trong dân gian : Dưới triều vua Tự Đức, có hai vợ chồng đạo sĩ quê ở làng La Qua, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đạo sĩ là người giàu tài đức, hay giúp đỡ người nghèo khó, căm ghét bọn quan lại hay ức hiếp dân làng, chống lại chế độ đương thời, ông bị triều đình Tự Đức kết tội gây rối, mưu toan bạo loạn và chịu hình phạt “ Tam Ban Triều Diễn”. Trước lúc bị hình phạt này, Đạo sĩ đã biến dải lụa điều thành rồng bay về phương Nam. hai vợ chồng dừng chân ở làng Tam Tân ngày ngày bốc thuốc chữa bệnh cho dân và đốn củi kiếm sống qua ngày. tài đức của đạo sĩ nổi tiếng khắp vùng, từ đó dân làng gọi hay vợ chồng Đạo sĩ bằng cái tên thân mật “Thầy, Thím”. Có nhiều truyền thuyết khác trong dân gian nói về tài đức và phép thuật của Thầy Thím. Cho đến lúc hai vợ chồng đạo sĩ chết, dân làng đã mai táng ở khu vực gần đó. Hằng năm vào ngày 5 tháng giêng âm lịch, người ta thường thấy một đôi hổ về viếng mộ Thầy.

Đến đời Thành Thái thứ 18 năm Bính Ngọ (1906) nhà vua đã xem xét lại công đức của Thầy thím nên quyết định xoá án và ban sắc phong “Chí Đức Tiên Sinh, Chí Đức Nương Nương tôn Thần”.

Tương truyền rằng, xưa kia, hàng năm, cứ đến ngày mồng năm tháng Giêng âm lịch, người ta lại thấy có đôi Bạch - Hắc Hổ thường xuyên về tảo mộ, phủ phục gần đó canh gác cho ngôi mộ. Đã nhiều năm nay, khu vực này luôn được bảo tồn, chăm sóc.

3/ Một số địa điểm Du lịch khác tại thị xã La Gi

Chợ hải sản ở Lagi luôn có hải sản tươi ngon nhất vì Lagi có cảng cá khá lớn.

- Biển Cam Bình: biển ở Lagi còn khá hoang sơ, ở đây không có các dịch vụ cao cấp như 2 vùng lân cận là Vũng Tàu và Phan Thiết, nhưng bù lại ở đây mọi thứ đều rất gần gũi với thiên nhiên, trong lành.

Hải sản được đánh bắt và đem lên bờ để bán ngay cho khách du lịch

Sau khi thõa sức lựa chọn hải sản tươi và rẻ, ta có thể mướn bếp than , vậy là chúng ta có 1 bữa ăn hoành tráng gần gũi thiên nhiên

- Con đường ven biển hướng ra Bãi tắm Đồi Dương

Năm 1968: Ngày 13/5, Hội nghị Paris giữa phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và Hoa Kỳ chính thức bắt đầu tại Trung tâm Hội nghị quốc tế, phố Kléber. Trưởng đoàn VNDCCH là ông Xuân Thủy. Lập trường của Mỹ thời kỳ đầu đàm phán là: cần có sự tham gia của phái đoàn Chính phủ Sài Gòn; Bắc Việt Nam không vi phạm khu phi quân sự, không bắn pháo hay tên lửa vào các thành phố lớn ở miền Nam như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Phía VNDCCH phản đối những đòi hỏi đó và đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và để Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) tham gia hội đàm.

Năm 1969: Ngày 25/1, lần đầu tiên diễn ra đàm phán giữa bốn bên tham chiến để giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam; Hội nghị bốn bên gồm đại diện của VNDCCH, MTDTGPMNVN, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa long trọng khai mạc. Trưởng đoàn MTDTGPMNVN là ông Trần Bửu Kiếm. Ngày 8/5, đoàn MTDTGPMNVN đưa ra tuyên bố của Mặt trận về “Những nguyên tắc và nội dung chủ yếu của giải pháp toàn bộ về vấn đề miền Nam Việt Nam, góp phần lập lại hòa bình ở Việt Nam”, sau đó thường gọi tắt là “Giải pháp toàn bộ 10 điểm”. Bản đề nghị này nêu quan điểm tổng quát của Việt Nam về tất cả các mặt của một giải pháp cho cuộc chiến tranh, nhưng tập trung vào hai nội dung chính: Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút hết quân Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam vô điều kiện; công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam do Nhân dân miền Nam.

Việt Nam tự giải quyết, lập Chính phủ liên hiệp lâm thời để tổ chức Tổng Tuyển cử tự do. Đây là lần đầu tiên một bên tham gia đàm phán đưa ra một giải pháp toàn diện, tổng thể về vấn đề Việt Nam. Ngày 12/6, đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CPCMLTCHMNVN) tham dự phiên họp đầu tiên tại Hội nghị với tư cách là những người đại diện cho Chính phủ Cách mạng lâm thời, thay thế cho Mặt trận. Bộ trưởng Ngoại giao CPCMLTCHMNVN Nguyễn Thị Bình là trưởng đoàn. Trong thời gian này, nhiệm vụ chủ yếu của đấu tranh ngoại giao là thúc đẩy Mỹ xuống thang, đơn phương rút quân Mỹ. Ngay trong tháng 6/1969, Nixon công bố đợt rút quân đầu tiên. Trong tháng 8/1969, bắt đầu các cuộc gặp riêng giữa Xuân Thủy và Kissinger, chủ yếu là để thăm dò sơ bộ.

Năm 1970: Ngày 21/2 diễn ra cuộc gặp riêng đầu tiên giữa Lê Đức Thọ - Xuân Thủy và Kissinger tại Paris. Ngày 14/9, đoàn đàm phán CPCMLTCHMNVN đưa ra tuyên bố “Tám điểm” về giải pháp cho vấn đề Việt Nam. Ngày 17/9, tại phiên họp toàn thể lần thứ 80 Hội nghị Paris, CPCMLTCHMNVN đưa ra giải pháp “Tám điểm - nói rõ thêm” về một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, trong đó có việc rút quân Mỹ và thả tù binh cùng một thời hạn, thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời ở miền Nam Việt Nam không có Thiệu - Kỳ - Khiêm. Ngày 18/10, Tổng thống Mỹ Nixon đưa ra “Đề nghị năm điểm” mà không đòi quân miền Bắc rút khỏi miền Nam Việt Nam. Ngày 10/12, tại phiên họp toàn thể lần thứ 94 Hội nghị Paris, bà Nguyễn Thị Bình đưa ra “Tuyên bố ba điểm” về ngừng bắn và yêu cầu quân Mỹ rút khỏi miền Nam vào ngày 31/7/1971.

Năm 1971: Ngày 31/5, tại cuộc gặp riêng với Trưởng đoàn đàm phán VNDCCH Xuân Thủy, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Kissinger đưa ra đề nghị “cuối cùng” 7 điểm, đòi tách riêng vấn đề quân sự và vấn đề chính trị, mặc dù trước đây Mỹ định bàn cả hai. Để tăng sức ép với Mỹ và hỗ trợ đấu tranh quân sự và chính trị, ngày 26/6, trong cuộc gặp riêng Lê Đức Thọ - Kissinger, phía Việt Nam đưa ra “Sáng kiến hòa bình 9 điểm” tập trung vào việc đòi Mỹ thay Nguyễn Văn Thiệu. Ngày 01/7, trong phiên họp thứ 119 của Hội nghị bốn bên, bà Nguyễn Thị Bình trình bày “Sáng kiến mới gồm 7 điểm, nhằm giải quyết hòa bình vấn đề miền Nam Việt Nam”. Đề nghị 7 điểm là đề nghị quan trọng thứ hai (sau đề nghị 10 điểm tháng 5/1969) được đưa ra tại bàn đàm phán; được dư luận rộng rãi đồng tình và chính giới Mỹ quan tâm. Sáng kiến “9 điểm” và “7 điểm” gần như có cùng một nội dung là đòi Mỹ định thời hạn rút hết quân và lập ở Sài Gòn một chính quyền không có Thiệu. Ngày 16/8, Kissinger đưa ra “Đề nghị 8 điểm”, về cơ bản Mỹ vẫn giữ lập trường cũ: không muốn giải quyết toàn bộ mà chỉ muốn giải quyết vấn đề quân sự để lấy được tù binh về.

Năm 1972: Ngày 2/2, để tăng sức ép với Mỹ và phối hợp với các hoạt động quân sự đang được chuẩn bị, CPCMLTCHMNVN ra tuyên bố “Hai điểm nói rõ thêm” trong giải pháp 7 điểm ngày 1/7/1971. Ngày 24/3, Mỹ đơn phương tuyên bố ngừng họp Hội nghị Paris vô thời hạn. Ngày 30/3, quân và dân Việt Nam mở cuộc Tổng tấn công chiến lược Xuân - Hè, đánh địch trên 5 mặt trận lớn từ Trị Thiên đến đồng bằng Cửu Long. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của chính quyền Nixon thất bại một bước nghiêm trọng. Thắng lợi của đợt tấn công chiến lược Xuân - Hè 1972 đã phục vụ tích cực cho đấu tranh chính trị và ngoại giao, và nhất là đưa đàm phán Paris đi vào thực chất từ tháng 7/1972.

Ngày 13/7, Mỹ chấp nhận họp lại Hội nghị toàn thể bốn bên ở Paris. Từ tháng 7 đến tháng 9/1972, đã diễn ra bốn cuộc gặp riêng, Việt Nam đã lần lượt đưa ra 3 đề nghị, Mỹ đưa 4 đề nghị. Việt Nam muốn có một hình thức chính quyền liên hiệp; Mỹ muốn giữ chính quyền Sài Gòn, giải quyết vấn đề nội bộ miền Nam trong khuôn khổ chế độ chính quyền Sài Gòn. Qua ba tháng thương lượng, tranh cãi gay gắt, đàm phán đạt một số thỏa thuận: Mỹ nhận rút hết quân trong ba tháng, thực hiện ngừng bắn tại chỗ ở miền Nam, cam kết chấm dứt dính líu về quân sự, nhận lập ủy ban hòa giải để tổ chức Tổng Tuyển cử.

Tại phiên họp ngày 8/10 - phiên họp bước ngoặt của diễn đàn đàm phán bí mật - Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đưa ra dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” và dự thảo “Thỏa thuận về quyền tự quyết của Nhân dân miền Nam”. Sức mạnh tấn công, tháo gỡ bế tắc của bản dự thảo Hiệp định 8/10 là ở chỗ tạm gác nhiều vấn đề chính trị nội bộ miền Nam, “giải quyết theo hai bước”, không đòi xóa chính quyền Sài Gòn và gạt Thiệu. Ngay trong chiều 09/10, phía Mỹ đưa ra một phản đề nghị dưới dạng dự thảo hiệp định, trong đó chấp nhận nhiều điều khoản và vấn đề đoàn Việt Nam đã nêu. Việc đưa dự thảo hiệp định 8/10 là một bước có ý nghĩa đột phá trong đàm phán, làm lập trường của hai bên gần nhau và chuyển từ đàm phán khung giải pháp sang đàm phán thẳng các điều khoản của Hiệp định, buộc Mỹ không thể lẩn tránh. Tuy nhiên, cuộc đàm phán vẫn diễn ra gay gắt và kéo dài. Ngày 20/10, hai bên đạt được thỏa thuận cuối cùng, dự định ký Hiệp định ngày 31/10/1972. Việt Nam đã đạt được các mục tiêu đề ra là Mỹ chấm dứt chiến tranh và rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam.

Tuy Kissinger tuyên bố “Hòa bình trong tầm tay”, nhưng ngay sau khi Nixon trúng cử Tổng thống nhiệm kỳ hai, phía Mỹ lại nêu ra nhiều trở ngại để trì hoãn việc ký Hiệp định. Với việc Việt Nam phê phán thái độ không nghiêm túc của chính quyền Mỹ và dưới sức ép của dư luận quốc tế, đợt đàm phán mới bắt đầu từ ngày 20/11. Ngay phiên đầu tiên, Mỹ đã đòi sửa 69 điểm trong văn bản đã thỏa thuận ngày 20/10/1972, tức là hầu hết các chương của Hiệp định bao gồm nhiều vấn đề thực chất. Ta phê phán gay gắt các đề nghị của Mỹ, khẳng định những vấn đề nguyên tắc không thể sửa đổi như tên CPCMLTCHMNVN, vùng kiểm soát của mỗi bên, vấn đề quân miền Bắc... Phiên họp ngày 12-13/12 gặp bế tắc.

Ngày 18/12, chính quyền Nixon tổ chức chiến dịch đánh phá bằng máy bay chiến lược B52 với quy mô chưa từng có trong lịch sử chiến tranh không quân ở miền Bắc Việt Nam nhằm gây tổn thất lớn nhất có thể, ép VNDCCH chấp nhận điều kiện của Mỹ tại bàn đàm phán Paris. Quân và dân Việt Nam kiên quyết giáng trả, đập tan cuộc tập kích bằng không quân chiến lược 12 ngày đêm của Mỹ, làm nên chiến thắng lịch sử “Điện Biên Phủ trên không”. Bị thất bại nặng nề, ngày 30/12, Mỹ buộc phải đơn phương tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ bắc vĩ tuyến 20 và đề nghị nối lại đàm phán ở Paris.

Năm 1973: Ngày 8/01, vòng đàm phán cuối cùng diễn ra tại Paris. Ngày 13/1, các bên hoàn thành văn bản của Hiệp định; những đợt gặp riêng giữa Lê Đức Thọ - Xuân Thủy và Kissinger kết thúc. Ngày 23/1, Mỹ chấp nhận ký Hiệp định Paris không điều kiện; Lê Đức Thọ và Kissinger tiến hành ký tắt Hiệp định và 4 Nghị định thư. về cơ bản, Hiệp định mới không khác nhiều so với văn bản ngày 20/10/1972. Việt Nam đã bảo vệ được các nguyên tắc và nội dung cơ bản: Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút quân trong 2 tháng; giữ nguyên trạng về chính trị; Hội đồng hòa giải hòa hợp dân tộc 3 thành phần; hoàn toàn không đề cập vấn đề quân đội miền Bắc.

Ngày 27/1, Bộ trưởng Ngoại giao bốn bên dự Hội nghị Paris là Nguyễn Duy Trinh (VNDCCH), Nguyễn Thị Bình (CPCMLTCHMNVN), w. Rogers (Hoa Kỳ) và Nguyễn Văn Lắm (chính quyền Sài Gòn) đã chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam; và bốn Nghị định thư liên quan. Ngày 28/1, ngừng bắn trên toàn miền Nam Việt Nam. Hiệp định Paris chính thức được thi hành. Hiệp định Paris buộc Mỹ phải rút khỏi Việt Nam và mở đường cho sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn. Đây là kết quả của quá trình đàm phán dài nhất thế giới với 4 năm 8 tháng 16 ngày, gồm 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 buổi họp báo, gần 1.000 cuộc phỏng vấn và nhiều phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam trên khắp thế giới.